Skip to main content

Công ước Pháp-Thanh 1887 – Wikipedia tiếng Việt



Công ước Pháp-Thanh 1887 hay còn có tên là Công ước Constans 1887 được thực hiện giữa Pháp và nhà Thanh nhằm thi hành Điều khoản 3 của Hòa ước Thiên Tân 1885 mà hai bên đã ký năm 1885. Nội dung của công ước này nhằm phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc.

Trong quá trình hai bên tiến hành phân chia đường biên giới; đại diện nhà Thanh là Lý Hồng Chương đã nói với đô đốc Pháp Rieunier: nước Pháp đã đạt được nhiều quyền lợi khi chiếm được Bắc Kỳ, một nước chư hầu của Trung Hoa 600 năm nay; việc này là nhờ trung gian của tôi. Nó đã gây cho tôi nhiều phiền phức; tôi nghĩ rằng một sự đền bồi dưới dạng nhượng vài vùng đất nhỏ trên vùng biên giới là cần thiết.

Pháp nghe nói và cũng muốn để cho Trung Hoa công nhận sự chiếm đóng Bắc Kỳ của Pháp và không gây khó khăn nên đã nhân nhượng và thực hiện cắt một số đất đai ở Hà Giang và Quảng Yên giao cho nhà Thanh.





Biên giới trên đất liền[sửa | sửa mã nguồn]


Biên giới Việt Nam - Trung quốc thay đổi sau các công ước Pháp Thanh, làm Việt Nam mất dần vùng đất Tụ Long

  1. Cắt 3/4 đất tổng Tụ Long thuộc tỉnh Hà Giang, có diện tích 750 km2 cho tỉnh Vân Nam - Trung Quốc

  2. Cắt 9 xã rưỡi thuộc tổng Kiền Duyên và Bát Tràng thuộc tỉnh Quảng Yên cho tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc

Biên giới trên biển[sửa | sửa mã nguồn]


Mũi Bạch Long hay mũi Bạch Long Vĩ (Paklung) trên bản đồ 1888 bị cắt cho nhà Thanh

Các đảo ở về phía Đông của đường kinh tuyến đông 105 độ 43 phút Paris, có nghĩa là đường thẳng Bắc-Nam đi qua đông điểm của đảo Trà Cổ và tạo thành đường biên giới thì thuộc về Trung Quốc



Sau khi những nhượng bộ của Pháp dành cho Trung Quốc về đường biên giới trên đất liền và biển, việc thực thi được thực hiện bởi đại diện của hai bên là Ernest Constans - Đặc sứ của Cộng hoà Pháp tại Trung Hoa và Hoàng thân Kinh - Chủ tịch Tổng lý nha môn nhà Thanh, ký tên trong biên bản những chi tiết sau đây để giải quyết dứt khoát sự phân định đường biên giới:


  1. Các biên bản và các bản đồ kèm theo đã được các uỷ ban Pháp-Trung thiết lập và ký tên thì được công nhận

  2. Các điểm mà tại đó hai Uỷ ban đã không thể giải quyết và những sửa đổi được phê duyệt qua phần 2 của công ước 9 tháng 6 thì được giải quyết như sau:
  • Tại Quảng Đông, hai bên thoả thuận rằng những điểm tranh chấp ở về phía Đông và phía Đông Bắc Móng Cái, những điểm này ở phía bên kia của đường biên giới đã được uỷ ban phân định xác định thì chúng được giao cho Trung Hoa

  • Những hòn đảo ở về phía Đông của đường kinh tuyến Paris 105 độ 43 phút kinh độ Đông, có nghĩa là đường thẳng Bắc Nam đi qua đông điểm đảo Trà Cổ và tạo thành đường biên giới cũng được giao cho Trung Hoa

  • Các đảo "Go Tho" (đảo Cô Tô) và những đảo khác ở về phía Tây của đường kinh tuyến này thì giao cho Bắc Kỳ

Hiệp định được thực thi của hai bên gồm có các tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]


  • Nội dung bản công ước

  • Bản đồ phân định lãnh hải khu vực vịnh Bắc Bộ giữa Bắc Kỳ và Quảng Đông

  • Bản đồ phân định lãnh thổ giữa Bắc Kỳ với Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam

Trên các bản đồ phân định có chữ ký đại diện của hai bên, bên góc trái là của Pháp, bên góc phải là của Trung Hoa




  • Bang giao Đại Việt, triều Nguyễn - Nhà xuất bản Văn Hoá Thông tin, 2005

Comments

Popular posts from this blog

Hán Quang Vũ Đế – Wikipedia tiếng Việt

Hán Quang Vũ Đế (chữ Hán: 漢光武帝; 15 tháng 1, 5 TCN – 29 tháng 3, 57), hay còn gọi Hán Thế Tổ (漢世祖), tên húy Lưu Tú (劉秀), là vị Hoàng đế sáng lập nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời là vị Hoàng đế thứ 16 của nhà Hán. Ông trị vì từ năm 25 đến khi mất, tổng cộng 32 năm tại vị. Là dòng dõi xa của nhà Hán và từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động, được gọi là Quang Vũ trung hưng (光武中興). Trong lịch sử Trung Quốc, Quang Vũ Đế Lưu Tú được đánh giá cao với tài cầm binh, sau khi xưng Đế đã đích thân dẫn binh thảo phạt tứ phương, thu phục nhiều quân phiệt và củng cố chính quyền nhà Hán sau một thời gian bị gián đoạn. Ông trọng hiền đãi sĩ, khoan hậu trọng tín, nên được chư hầu Đậu Dung (竇融), tướng Mã Viện đều quy phục. Khác với tổ tiên Hán Cao Tổ Lưu Bang, hoặc các vị Hoàng đế k...

Lăng Họ Ngọ – Wikipedia tiếng Việt

Lăng Họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang Từ ), di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, được công nhận theo Quyết định số 29/QĐ-BHV ngày 13 tháng 1 năm 1964 của Bộ văn hóa [1] , thuộc làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (xưa thuộc tổng Quế Trạo, huyện Hiệp Hòa, phủ Bắc Hà, xứ Kinh Bắc). Ngày 28 tháng 3 năm 1996 nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức cấp Bằng công nhận di tích lịch sử - văn hóa cho Lăng đá họ Ngọ (Ảnh 10). Lăng Họ Ngọ xây dựng năm 1697 (xây trước Lăng Dinh Hương, trước tất cả các lăng mộ vua Nguyễn ở Huế), trùng tu 1714, nơi lưu giữ di hài Phương quận công Ngọ Công Quế và là nơi thờ cúng quận công cùng tiên tổ họ Ngọ. Vua Lê có sắc phong cho ông: Linh ứng cương nghị minh đạt đức hậu chính thần. Cha của ông là Phúc an hầu Ngọ Công Tuấn giữ chức Thái Nguyên xứ tham tán và được huân phong: Tướng công hiển cung đại phu, tham đốc thái vũ, tử vệ quân sự vụ. Ông nội là Thái sơn hầu Ngọ Công Văn và được phong tặng: Vũ liệt tướng quân, tham đ...